Giải pháp nào để thép Việt Nam tránh được các vụ kiện thương mại?

 Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), dự báo tăng trưởng ngành thép năm 2018 đạt 20-22%, trong đó, thép xây dựng tăng trưởng 10%, thép cuộn cán nguội tăng 5%, thép ống hàn tăng 15% và sản xuất tôn mạ và sơn phủ màu tăng 12%.

Tuy nhiên, ngành thép Việt Nam vẫn tiếp tục đối mặt với các vụ điều tra phòng vệ thương mại (PVTM), trong đó có nhiều vụ “dây dưa” sang năm 2018.

Vừa bị thép ngoại cạnh tranh, vừa bị chống bán phá giá

Theo VSA, tổng năng lực sản xuất của ngành thép nước ta hiện vào khoảng 30 triệu tấn/năm. Cụ thể, ở mặt hàng phôi thép là 12 triệu tấn/năm, thép cán đạt 12 triệu tấn/năm, tôn mạ phủ màu là 5 triệu tấn/năm, thép ống 3 triệu tấn/năm.

Với quy mô này, ngành thép Việt Nam được đánh giá đang đứng đầu các nước Đông Nam Á. Năm 2017, XK của ngành thép đạt 5,5 triệu tấn, tăng 28,5%; kim ngạch đạt 3,6 tỉ USD, tăng 45,4% so năm 2016. Tuy nhiên, ngành này phải đối mặt với nhiều thách thức do kháng kiện các vụ kiện của nước ngoài như: Mỹ, Australia, Indonesia, Malaysia, Thái lan, Ấn Độ… đối với sản phẩm thép xuất khẩu (XK).

Ngành thép chịu nhiều áp lực do tình hình bảo hộ thương mại đang diễn ra ngày càng nhiều trên thế giới, hầu hết các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ, EU đều khởi xướng điều tra, áp dụng thuế bảo hộ thương mại để bảo vệ thị trường trong nước nên gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Tính đến cuối năm 2017, ngành thép Việt Nam phải đối mặt với 30 vụ kiện PVTM từ các quốc gia. Phải đối mặt nhiều nhất với các vụ kiện chống bán phá giá (CBPG), chống trợ cấp từ các nước NK và hiện bị áp thuế CBPG và các biện pháp trợ cấp, tự vệ từ nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia đã khiến XK thép của Việt Nam sang một số nước gặp nhiều khó khăn.

Trong khi XK gặp khó vì đối mặt với nhiều vụ kiện, thị trường trong nước cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì thép nhập khẩu (NK) vẫn ồ ạt tràn vào. Điều đáng nói là, một số mặt hàng thép mà Việt Nam đã sản xuất được nhưng vẫn phải NK với số lượng lớn như tôn mạ và sơn phủ mầu (1.270.000 tấn); thép cây và thép cuộn (877.000 tấn)…

Tỉ lệ NK thép nhiều nhất từ Trung Quốc: 46,5%, Nhật Bản: 15,2%, Hàn Quốc: 11,4%, Đài Loan: 10,6% và Ấn Độ: 10,2%… Theo Cục Xuất nhập khẩu (XNK) – Bộ Công Thương, sản lượng thép của Trung Quốc đã tăng hơn 12 lần: Từ năm 2015, quốc gia này đã đạt 803,83 triệu tấn trong năm, trong khi nhu cầu thép của Trung Quốc chỉ khoảng 672 triệu tấn.

Với lượng thép sản xuất ra dư thừa so với nguồn cung quá lớn như vậy, Trung Quốc đặt nhiều nước sản xuất thép vào thế phải cạnh tranh, trong đó có Việt Nam.

“Gậy thần” nào để tránh các vụ kiện thương mại?

Theo VSA, để đạt được mức tăng trưởng sản xuất từ 20-22% so với năm 2017, các DN thép nội cần phải nỗ lực hơn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh bằng cách đầu tư mạnh vào công nghệ mới hiện đại, nâng cao khả năng quản trị. Về phía vai trò của nhà nước, cần định hướng thông tin về thị trường, sản phẩm cũng như chiến lược phát triển các nhà máy thép, đề xuất những chính sách khuyến khích và chế độ bảo hộ.

Theo Phó Chủ tịch VSA Nguyễn Văn Sưa – Để vượt qua khó khăn, thúc đẩy XK tốt hơn trong thời gian tới, tránh các vụ kiện PVTM, các doanh nghiệp XK cần nghiên cứu, bố trí thị trường XK hợp lý, tránh tập trung chủ yếu vào một vài thị trường gây ra tình trạng XK tăng đột biến, tạo cớ cho các nước NK tiến hành khởi xướng điều tra.

Ngoài ra, các DN XK thép cũng phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm cũng như nâng cao nhận thức về thương mại quốc tế, tránh rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, cần sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là các đơn vị trực tiếp như Bộ Công Thương.

Nguồn tin: Lao động

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

đã ký hợp đồng mua bán